Mục lục bài viết
1. Giới thiệu tác giả
Giáo trình Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại và kĩ năng đàm phán, soạn thảo – Trường đại học Luật Hà Nội do TS. Nguyễn Thị Dung chủ biên cùng sự tham gia biên soạn của tập thể tác giả là giảng viên trường đại học Luật Hà Nội.
Tập thể tác giả:
TS. Vũ Thị Lan Anh
TS. Nguyễn Thị Dung
TS. Đoàn Trung Kiên
TS. Vũ Đặng Hải Yến
TS. Nguyễn Thị Yến
ThS. Lê Thị Lợi
ThS. Trần Thị Bảo Ánh
ThS. Trần Quỳnh Anh
ThS. Nguyễn Như Chính
ThS. Vũ Phương Đông
ThS. Nguyễn Quý Trọng
ThS. Phạm Nguyễn Linh
2. Giới thiệu hình ảnh sách
Giáo trình Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại và kĩ năng đàm phán, soạn thảo – Trường đại học Luật Hà Nội
Tác giả: TS. Nguyễn Thị Dung chủ biên
Nhà xuất bản Công an nhân dân
3. Tổng quan nội dung sách
4. Đánh giá bạn đọc
Đây là học liệu quan trọng và cần thiết phục vụ học tập và giảng dạy bộ môn Luật thương mại và các môn học liên quan của học viên, sinh viên đào tạo ngành Luật và thương mại, đồng thời đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu về lĩnh vực này.
5. Kết luận
Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “Giáo trình Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại và kĩ năng đàm phán, soạn thảo – Trường đại học Luật Hà Nội“.
Mys Law chia sẻ dưới đây một số nội dung cơ bản về hợp đồng trong hoạt động thương mại để bạn đọc tham khảo:
Hợp đồng trong hoạt động thương mại là khái niệm mang tính chất tương đối, chưa được luật hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trước khi bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực, ở Việt Nam tồn tại hai loại hợp đồng riêng biệt là hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế. Hợp đồng kinh tế hợp đồng thỏa mãn ba điều kiện: chủ thể hợp đồng là các pháp nhân hoặc ít nhất một bên là pháp nhân, bên kia là cá nhân có đăng ký kinh doanh, hội nông dân, ngư dân phải nghĩ nhân, người hoạt động khoa học, kỹ thuật; các bên tham gia hợp đồng có mục đích kinh doanh; hợp đồng được lập thành văn bản. Những hợp đồng không thấp ứng được một trong ba điều kiện trên thì không được coi là hợp đồng kinh tế mà chỉ là hợp đồng dân sựKhái niệm hợp đồng trong thương mại chưa từng được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Luật thương mại năm 1997 chỉ nhắc đến hợp đồng trong hoạt động thương mại tại điều 238. Nhưng bản thân thuật ngữ này cũng bị loại bỏ trong luật thương mại năm 2005.Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm hoạt động thương mại đồng nghĩa với khái niệm hoạt động kinh doanh. Khoản một điều ba luật thương mại năm 2005 quy định: hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Hoạt động kinh doanh cũng là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Sự đồng nhất khái niệm hoạt động thương mại và hoạt động kinh doanh dẫn đến việc đồng nhất khái niệm hợp đồng trong thương mại và hợp đồng kinh doanh.Trên cơ sở khái niệm hợp đồng được quy định tại Điều 388 bộ luật dân sự năm 2005, có thể đưa ra khái niệm sau: hợp đồng trong thương mại là sự thoả thuận giữa các thương nhân hoặc sự thương nhân và người có liên quan về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong hoạt động thương mại của mình.Đặc điểm pháp lý của hợp đồng thương mạiHợp đồng thương mại có các đặc điểm pháp lý cơ bản sau: Lĩnh vực phát sinh quan hệ hợp đồng là lĩnh vực thương mại, bao gồm các lĩnh vực thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ; một bên chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân. Trong nhiều quan hệ hợp đồng thương mại cả hai bên đều phải là thương nhân như hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá; mục đích của thương nhân khi tham gia quan hệ hợp đồng là nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình; hình thức của hợp đồng có thể bằng lời nói, hành vi hay văn bản. Đối với hợp đồng mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó. Fax, telex, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản.\
Hợp đồng thương mại là những hợp đồng riêng trong lĩnh vực thương mại: Khi thoả mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng thì hợp đồng thương mại mang tính chất của một hợp đồng kinh tế.
Chủ thể của hợp đồng thương mại
Chủ thể hợp đồng trong lĩnh vực thương mại chủ yếu được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên, có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng trong lĩnh vực thương mại trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể.
Ví dụ, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá phải tuân theo Luật Thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại hay ví dụ khác: Trong quan hệ ủy thác mua bán hàng hoá, bên ủy thác có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân (Điều 157 Luật Thương mại năm 2005).
Đối tượng của hợp đồng thương mại
Tương tự như đối tượng của hợp đồng dân sự, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại có đối tượng là hàng hoá hoặc dịch vụ (công việc). Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thương mại có một số loại hợp đồng có đối tượng chưa được biết đến trong hợp đồng dân sự truyền thống, đó là các hợp đồng có tính chất tổ chức như hợp đồng thành lập công ty hay hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC), hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (hợp đồng PPP)… Đối tượng của các loại hợp đồng này không phải là hàng hoá hoặc dịch vụ mà là một hoạt động mang tính tổ chức để hình thành nên các doanh nghiệp hoặc để thực hiện hoạt động thương mại. Trên thực tế, đối tượng hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thường có số lượng lớn và do đó, nhìn chung, giá trị của hợp đồng thương mại thường lớn hơn giá trị của hợp đồng dân sự. Điều này dẫn đến sự khác nhau trong nội dung của hợp đồng dân sự và nội dung của hợp đồng trong lìhh vực thương mại. Chẳng hạn, một người nào đó mua của thương nhân kinh doanh vật liệu xây dựng vài cân xi măng về sửa chữa nhỏ trong gia đình. Ở đây đối tượng hợp đồng rất nhỏ nên nội dung của hợp đồng này rất đơn giản, việc giao nhận và thanh toán được thực hiện theo kiểu “tiền trao, cháo múc”. Còn trường hợp một công ty xây lắp ký hợp đồng mua của một công ty xi măng 1000 tấn xi măng để xây dựng một công trình nào đó thì việc thỏa thuận cũng như thực hiện các điều khoản trong nội dung của hợp đồng phức tạp hơn nhiều từ việc xác định số lượng, chất của đối tượng cho đến giao nhận, thanh toán … Thậm chí, để thực hiện hợp đồng với đối tượng lớn như vậy, có thể làm phát sinh các hợp đồng mới như hợp đồng bốc xếp hàng hoá.
Ví dụ: Các hợp đồng trong hoạt động thương mại được xác lập bằng văn bản giữa các thương nhân, trong đó, ít nhất một bên là pháp nhân để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Nếu không thoả mãn các điều kiện đó, hợp đồng thương mại chỉ mang tính chất của một hợp đồng dân sự.