Nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân là gì?
Nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân là khái niệm chỉ những khoản nợ phát sinh từ các giao dịch hoặc hành vi của một bên vợ hoặc chồng, không liên quan đến lợi ích chung của gia đình. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ được hiểu là nghĩa vụ phải hoàn trả một khoản tiền, bao gồm gốc, lãi, phí và các chi phí liên quan khác, phát sinh từ việc vay mượn hoặc các hoạt động hợp pháp. Người có nợ phải tự chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chủ nợ.
Cụ thể, Điều 45 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng như sau:
“Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
- Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.”
Từ đó, có thể hiểu nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân bao gồm các khoản nợ mà một bên tự tạo ra, chẳng hạn như vay tiền để đầu tư cá nhân, cờ bạc hoặc các hoạt động không phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình như ăn ở, sinh hoạt, học tập của con cái. Ví dụ, nếu chồng vay tiền để kinh doanh riêng mà không thông báo cho vợ, và khoản vay không nhằm mục đích gia đình, thì đây được coi là nợ riêng. Việc phân biệt nợ riêng và nợ chung giúp bảo vệ quyền lợi của từng bên, tránh tình trạng một bên phải gánh chịu hậu quả từ hành vi cá nhân của bên kia.

Nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người còn lại có nghĩa vụ liên đới trả nợ không?
Đối với nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân, người còn lại (vợ hoặc chồng) không có nghĩa vụ liên đới trả nợ, trừ khi có bằng chứng chứng minh khoản nợ đó phục vụ lợi ích chung của gia đình. Pháp luật quy định rõ ràng để bảo vệ quyền lợi cá nhân, đồng thời khuyến khích trách nhiệm riêng lẻ trong quản lý tài chính.
Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng:
“1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.”
Kết hợp với khoản 1 Điều 30 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
“Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.”
Và Điều 37 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng:
“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
- Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
- Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Như vậy, nếu khoản nợ được chứng minh là nợ riêng – ví dụ, vay để chi tiêu cá nhân hoặc vi phạm pháp luật – thì bên kia không phải chịu trách nhiệm liên đới. Tuy nhiên, trong thực tế, chủ nợ có thể yêu cầu tòa án xem xét nếu có dấu hiệu lạm dụng hoặc che giấu. Để tránh tranh chấp, các bên nên giữ chứng từ rõ ràng về mục đích sử dụng khoản vay, giúp tòa án dễ dàng phân định trách nhiệm.
Có được thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân nhằm giúp người kia trốn tránh nghĩa vụ trả nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân không?
Vợ chồng không được phép thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân với mục đích giúp một bên trốn tránh nghĩa vụ trả nợ riêng. Nếu thỏa thuận như vậy được lập ra, nó sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo quy định pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và duy trì tính công bằng xã hội.
Theo khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.”
Tuy nhiên, Điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu, trong đó điểm d khoản 2 nêu rõ:
“Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;’
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
…”
Do đó, nếu thỏa thuận chia tài sản nhằm chuyển tài sản cho bên kia để tránh trả nợ riêng, chẳng hạn như chồng có nợ cá nhân và thỏa thuận chuyển nhà đất sang tên vợ để chủ nợ không thể xiết nợ, thì thỏa thuận đó sẽ bị vô hiệu. Tòa án có quyền hủy bỏ và khôi phục tài sản để thực hiện nghĩa vụ. Trong thực tế, chủ nợ có thể khởi kiện để bảo vệ quyền lợi, và các bên vi phạm có thể chịu hậu quả pháp lý thêm như phạt hành chính hoặc trách nhiệm hình sự nếu có dấu hiệu lừa đảo. Để hợp pháp, thỏa thuận chia tài sản phải dựa trên lý do chính đáng, như phân chia để đầu tư hoặc quản lý riêng, và cần được công chứng để có giá trị pháp lý.
Trên đây là thông tin mà Mys Law cung cấp. Mọi thắc mắc liên quan đến nội dung bài viết xin vui lòng liên hệ 0969.361.319 hoặc email: [email protected] để được giải đáp.
Trân trọng!
Người biên tập: Nguyễn Thị Trà My